Các trường hợp Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện

02/07/2021 - 1958 lượt xem

Các trường hợp Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện

I/- Cơ sở pháp lý: 

- Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP.

II/- Nội dung:

Theo quy định tại Điều 192, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện khi phát sinh một trong các trường hợp sau đây:

1. Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, cụ thể:  

- Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

a) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp;

b) Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.

Ví dụ: Tổ chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ.

Ví dụ: Cụ A chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015). Trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ A theo pháp luật.

2. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật

Đó là trường hợp Bộ luật Tố tụng dân sự và các luật khác có quy định về các điều kiện để cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó. 

Ví dụ: Vợ khởi kiện vụ án ly hôn với chồng nhưng bị Tòa án bác yêu cầu. Theo quy định của pháp luật thì tối thiểu phải có 01 năm sau kể từ ngày bản án có hiệu lực thì vợ mới được quyền khởi kiện lại. Tuy nhiên, vợ lại nộp đơn yêu cầu ly hôn lần hai với chồng trong thời hạn chỉ mới 06 tháng kể từ ngày có hiệu lực của bản án bác yêu cầu ly hôn. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ trả lại đơn yêu cầu ly hôn của vợ.

Hoặc liên quan đến vụ án tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Lưu ý: Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: Tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,... thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án

3. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng.

4. Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết.

Ví dụ: Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai mà đối với thửa đất đó cơ quan, tổ chức, cá nhân không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 để giải quyết tranh chấp. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đã nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền và cơ quan đó đang giải quyết tranh chấp thì vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Tuy nhiên, khi xét thấy vụ việc dân sự đã được thụ lý không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình mà thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án Nhân dân địa phương khác cùng cấp hoặc khác cấp thì Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự sẽ ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền và xóa sổ thụ lý. Trong trường hợp này, Tòa án không trả lại đơn khởi kiện cũng như tạm ứng án phí mà đương sự đã đóng. Đồng thời, Tòa án phải ra văn bản thông báo cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết.

5. Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán

Khi nội dung đơn khởi kiện không có đầy đủ các nội dung theo quy định tại khoản 4 Điều 189 của Bộ luật này thì Thẩm phán thông báo bằng văn bản nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện để họ sửa đổi, bổ sung trong thời hạn do Thẩm phán ấn định nhưng không quá 01 tháng; trường hợp đặc biệt, Thẩm phán có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày. Nếu quá thời hạn này mà nguyên đơn không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán sẽ trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện.

Ví dụ: Đơn xin ly hôn của vợ không ghi địa chỉ cư trú của chồng thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và ấn định 20 ngày để nguyên đơn bổ sung đơn. Tuy nhiên, đã hết 20 ngày nhưng nguyên đơn vẫn không bổ sung được địa chỉ của chồng hoặc vợ trong đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho vợ.

6. Người khởi kiện rút đơn khởi kiện

Ví dụ về trường hợp đã nộp đơn xin ly hôn và được Tòa án thụ lý, vợ hoặc chồng là nguyên đơn vẫn có quyền rút lại đơn khởi kiện vào bất kỳ lúc nào (trừ trường hợp nguyên đơn rút đơn tại phiên tòa phúc thẩm thì phải được sự đồng ý của bị đơn). Lúc này, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và đình chỉ vụ án nếu Tòa án đã thụ lý.

Khi thuộc một trong những trường hợp ở trên, Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn, đồng thời ra văn bản trả nêu rõ lý do Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Khi đó, Tòa án sẽ không thụ lý đơn khởi kiện hoặc nếu đã thụ lý thì đình chỉ vụ án.

7. Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

Trên đây là nội dung trao đổi của chúng tôi về một số trường hợp bị trả đơn khởi kiện mà các bạn đọc giả đang thắc mắc.

Công ty Luật TNHH HT Legal VN - Hotline: 09.7117.4040