TRƯỜNG HỢP NÀO BỊ CAN, BỊ CÁO KHÔNG ĐƯỢC TẠI NGOẠI? (CÔNG TY LUẬT UY TÍN TẠI TP HỒ CHÍ MINH, VIỆT NAM)

22/04/2024 - 423 lượt xem

Tại phiên tòa sơ thẩm chiều ngày 20/3/2024, trong phần tự bào chữa cho mình, bị cáo Trương Mỹ Lan nói: “Tôi nhiều lần xin tại ngoại để làm việc với nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài để tái cấu trúc SCB và khắc phục hậu quả”. Vậy, tại sao mong muốn của bà Trương Mỹ Lan không được Tòa chấp thuận?

Tại phiên tòa sơ thẩm chiều ngày 20/3/2024, trong phần tự bào chữa cho mình, bị cáo Trương Mỹ Lan nói: “Tôi nhiều lần xin tại ngoại để làm việc với nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài để tái cấu trúc SCB và khắc phục hậu quả”.

Vậy, tại sao mong muốn của bà Trương Mỹ Lan không được Tòa chấp thuận? Luật sư HT Legal VN chúng tôi xin thông tin câu trả lời về trường hợp của bà Trương Mỹ Lan như sau:  

I. Cơ sở pháp lý

- Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- Bộ luật Hình sự 2015.

II. Nội dung

1. Tại ngoại là gì? Trường hợp nào người phạm tội không được tại ngoại?

Tại ngoại là việc cơ quan có thẩm quyền không áp dụng biện pháp tạm giam để điều tra với một người sau khi họ bị khởi tố vụ án, khởi tố bị can căn cứ vào nhân thân, tính chất, mức độ phạm tôi. Có thể do tội họ phạm chưa đến mức phải áp dụng biện pháp tạm giam hoặc họ đã thực hiện các biện pháp thay thế biện pháp tạm giam như: Bảo lĩnh, đặt tiền đảm bảo, cấm đi khơi nơi cư trú theo quy định tại Điều 121, 122, 123 BLTTHS 2015.

 

Còn khi người phạm tội bị áp dụng biện pháp tạm giam để điều tra, họ không được phép tại ngoại. Căn cứ Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự, các trường hợp không được tại ngoại (các trường hợp tạm giam) như sau:

1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

   a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

   b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

   c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

   d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

   đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:

   a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

   b) Tiếp tục phạm tội;

   c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;

  d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

 

Đây là nhóm trường hợp bị can, bị cáo thuộc trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam. Lý do là vì những tội phạm này có mức độ nghiêm trọng cao, gây ảnh hưởng lớn đến trật tự an ninh xã hội, nếu cho tại ngoại có thể khiến bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

Quay trở lại với mong muốn của bà Trương Mỹ Lan không được tại ngoại – trường hợp bắt buộc bị tạm giam theo quy định của pháp luật, theo quan điểm của Luật sư HT Legal VN như sau: 

Xét theo cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo Trương Mỹ Lan về các tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Rửa tiền”; “Tham ô tài sản”; “Đưa hối lộ” và “Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng” quy định tại khoản 4 Điều 174; khoản 3 Điều 324; khoản 4 Điều 353; khoản 4 Điều 364 và khoản 4 Điều 206 Bộ luật Hình sự. Mức độ phạm tội của bị cáo Trương Mỹ Lan thuộc các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.

Xét về nhân thân: thời điểm bị truy tố trước pháp luật, bị cáo Trương Mỹ Lan 68 tuổi (không đang bị bệnh nặng hoặc chữa trị bệnh) và mục đích của việc xin tại ngoại để khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả là nghĩa vụ mà bị cáo bắt buộc phải thực hiện, không phải là căn cứ áp dụng tại ngoại. Trả lời về việc tại ngoại khắc phục hậu quả, chủ tọa phiên tòa: "Nếu có nhà đầu tư, tổ chức tài chính nước ngoài, tỷ phú nước ngoài nào đó như bị cáo nói muốn khắc phục hậu quả giúp bị cáo thì HĐXX tạo điều kiện tối đa để bị cáo được gặp ngay tại giai đoạn xét xử này. Tuy nhiên, bị cáo phải nói là nhà đầu tư nước ngoài nào và có thể thông qua luật sư làm đơn gửi HĐXX xem xét chứ không thể nói chung chung". 

Như vậy, đối với trường hợp bị cáo Trương Mỹ Lan không được tại ngoại theo quy định của pháp luật. Việc có được phép tại ngoại hay không cần tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật nhằm đạt được mục đích các biện pháp đặt ra đồng thời đảm bảo quyền con người, quyền công dân. 

CÔNG TY LUẬT TNHH HT LEGAL VN

VP1: 37/12 Hẻm 602 Điện Biên Phủ, Phường 22, quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh (Bên cạnh UBND phường 22)

VP2: 207B Nguyễn Phúc Chu, Phường 15, quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh

VP3: Số 5 Ngách 252/115 phố Tây Sơn, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Tp. Hà Nội

Email: info@htlegalvn.com         Hotline: 0961614040 - 0922224040 - 0945174040

Thu Hằng
Theo HT Legal VN