Quy định về giao dịch mua bán khoản nợ của doanh nghiệp
Trong quá trình kinh doanh thì doanh nghiệp nào cũng sẽ phát sinh khoản nợ phải thu thậm chí khoản nợ này có thể chuyển thành những khoản nợ khó đòi, nếu doanh nghiệp không có phương án cũng như nghiệp vụ xử lý thì có thể sẽ gây thiệt hại không ít cho sức khỏe tài chính của doanh nghiệp.
Giải pháp để xử lý những khoản nợ này được các doanh nghiệp hiện nay ưa chuộng lựa chọn đó là bán khoản nợ cho doanh nghiệp có nguồn lực xử lý chuyên nghiệp hơn.
Trong phạm vi bài viết này HT LegalVN xin gửi đến quý bạn đọc quy định về giao dịch mua bán nợ phải thu của doanh nghiệp trừ hoạt động mua bán nợ liên quan đến tổ chức tín dụng, công ty đại chúng, công ty chứng khoán.
- Cơ sở pháp lý:
+ Bộ luật dân sự 2015;
+ Luật đầu tư 2020;
+ Luật doanh nghiệp 2020;
- Nội dung:
Theo quy định của Luật đầu tư 2020 đã bỏ ngành nghề mua bán nợ ra khỏi danh sách ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Lý do bãi bỏ được nêu trong Báo cáo thuyết minh chi tiết luật đầu tư sửa đổi số 7267/BC-BKHĐT ngày 04/10/2019 như sau:
Về bản chất, mua bán nợ là giao dịch trong đó một khoản nợ (cùng với các quyền và nghĩa vụ gắn với khoản nợ đó) được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác. “Nợ” – đối tượng của giao dịch này - bao gồm có thể là bất kỳ khoản nợ nào hình thành trong các giao dịch dân sự, thương mại bình thường (các khoản nợ có tính nhạy cảm, của một nhóm đối tượng đặc thù đã thuộc phạm vi điều chỉnh của các văn bản khác). Chủ thể của giao dịch mua bán nợ có thể là bất kỳ chủ thể kinh doanh nào (trừ các chủ thể chuyên nghiệp như các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán…đã được kiểm soát bằng các văn bản pháp luật khác). Dịch vụ mua bán nợ chỉ là dịch vụ hỗ trợ, thúc đẩy các giao dịch mua bán nợ nói trên. Kết quả của giao dịch mua bán nợ không làm thay đổi nghĩa vụ trả nợ hay khoản nợ, mà chỉ thay đổi chủ thể thực hiện nghĩa vụ đó. Như vậy, việc thực hiện giao dịch mua bán nợ cũng như kinh doanh dịch vụ mua bán nợ chỉ liên quan tới các chủ thể tham gia; không phù hợp với mục đích quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư 2014.
Hơn nữa, theo quy định của pháp luật dân sự, “nợ” được xem là một loại hàng hóa, được giao dịch trên thị trường (những khoản nợ “đặc thù”, “nhiều nguy cơ” – ví dụ các khoản nợ xấu của các ngân hàng, các tổng công ty nhất định … - đã được điều chỉnh bới các văn bản riêng). Hệ thống pháp luật về dân sự, thương mại liên quan tới hoạt động mua bán hiện tại đã đủ cơ sở pháp lý để điều chỉnh giao dịch mua bán nợ cũng như các giao dịch hỗ trợ mua bán nợ.
1. Giao dịch về mua bán quyền đòi nợ
Tại Điều 450, BLDS quy định:
“1. Trường hợp mua bán quyền tài sản thì bên bán phải chuyển giấy tờ và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu cho bên mua, bên mua phải trả tiền cho bên bán.
2. Trường hợp quyền tài sản là quyền đòi nợ và bên bán cam kết bảo đảm khả năng thanh toán của người mắc nợ thì bên bán phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán, nếu khi đến hạn mà người mắc nợ không trả.
3. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định.”
Theo đó, Điều 115 BLDS quy định về quyền tài sản như sau: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.
Như vậy, đối với giao dịch mua bán khoản nợ theo đó là giao dịch mua bán quyền tài sản là quyền đòi nợ.
2. Các vấn đề liên quan đến giao dịch mua bán quyền đòi nợ
2.1 Chủ thể giao dịch:
- Cá nhân, pháp nhân có đủ năng lực hành vi dân sự
- Bên mua nợ là tổ chức kinh tế thì phải có chức năng mua bán nợ
- Nếu có quan hệ công ty mẹ công ty con thì phải tuân thủ theo quy định tại Điều 196 Luật doanh nghiệp 2020.
2.2 Hình thức giao dịch (trừ giao dịch mua bán nợ của tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán, công ty đại chúng)
Phải lập hợp đồng văn bản đối với giao dịch mua bán nợ liên quan đến tổ chức tín dụng/công ty chứng khoán và công ty đại chúng.
Công chứng, chứng thực hợp đồng: không bắt buộc
2.3 Thực hiện giao dịch mua bán quyền đòi nợ:
- Áp dụng như phương thức chuyển giao quyền yêu cầu theo Điều 365 BLDS, cụ thể:
+ Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ.
+ Thực hiện trách nhiệm thông báo cho bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
+ Thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ
+ Trách nhiệm sau khi chuyển giao quyền yêu cầu: Người chuyển giao quyền yêu cầu không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ sau khi chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
+ Trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu và người thế quyền không chứng minh về tính xác thực của việc chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyền.
- Xác định thẩm quyền quyết định việc mua bán nợ trong nội bộ quản lý của hai chủ thể
Bán khoản nợ phải thu của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc bán tài sản nên việc quyết định căn cứ vào giá trị khoản nợ và Điều lệ, Quy chế nội bộ, Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật doanh nghiệp để xác định thẩm quyền quyết định việc mua bán trong nội bộ doanh nghiệp.
Lưu ý về trường hợp bên mua và bên bán có mối quan hệ “người có liên quan” với nhau theo Khoản 23 Điều 4 Luật doanh nghiệp sẽ áp dụng theo thẩm quyền quy định tại Điều 167 Luật doanh nghiệp.
Trên đây là nội dung trao đổi của chúng tôi liên quan đến giao dịch mua bán nợ phải thu của doanh nghiệp.
Công ty Luật TNHH HT Legal VN- Hotline: 09 6161 4040